Thế mạnh khoa học - công nghệ của Ấn Ðộ
07:07 27/08/2007: Tuyên bố chung được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng M.Xinh ký trong chuyến thăm của Thủ tướng nước ta tại Ấn Ðộ gần đây, nhấn mạnh: Hai nhà lãnh đạo nhất trí rằng trong quan hệ đối tác chiến lược mới giữa Việt Nam và Ấn Ðộ nhất thiết phải có sự hợp tác mật thiết hơn giữa hai nước trong lĩnh vực khoa học và công nghệ (KHCN).

KHCN và lực lượng sản xuất

Ấn Ðộ đang là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng GDP cao nhất thế giới, với 9,4% năm tài chính (NTC) 2006-2007. Sự phát triển đáng ngạc nhiên của Ấn Ðộ có phần đóng góp không nhỏ của KHCN. Năm 1958, Chính phủ Ấn Ðộ triển khai các chính sách về KHCN với những hướng chính: nuôi dưỡng, thúc đẩy và duy trì những hạt giống khoa học trong nước nhằm đem lại cho người dân tất cả lợi ích thu được từ việc tiếp nhận và ứng dụng tri thức khoa học. Với những chính sách và định hướng KHCN đúng đắn, hợp lý, Ấn Ðộ có những bước đột phá trong KHCN. Công nghệ thông tin (IT), trong đó công nghệ phần mềm có tốc độ phát triển nhanh nhất. Những tiến bộ KHCN hạt nhân và ứng dụng của nó nâng cao vị thế đất nước Ấn Ðộ. Gần đây, Ấn Ðộ cũng đã ghi dấu ấn nổi bật trong lĩnh vực CN sinh học, nông nghiệp, cơ khí chế tạo. Ngân sách cho nghiên cứu KHCN hằng năm tăng 16%. Chính phủ đã đầu tư, hỗ trợ nghiên cứu cơ bản cho 1.280 dự án, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng của 200 phòng thí nghiệm và 220 trường đại học, xây dựng thêm 20 trung tâm nghiên cứu mới. Khoảng 85% ngân sách phát triển KHCN được Chính phủ cấp kinh phí trực tiếp hoặc gián tiếp. Ấn Ðộ tập trung tiềm lực KHCN vào những mũi nhọn chiến lược, đưa KHCN trực tiếp tham gia quá trình sản xuất. Thành quả phát triển KHCN của Ấn Ðộ đáng tự hào mà còn là kinh nghiệm cho nhiều nước học tập. KHCN ở Ấn Ðộ đã và đang thúc đẩy nền kinh tế, xã hội phát triển, bảo đảm an ninh quốc phòng, an ninh lương thực và an ninh năng lượng. Ấn Ðộ đang thực hiện mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 và thành một trong những cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới.

Cường quốc IT

Năm 1991, Ấn Ðộ đưa ra chương trình phát triển IT, tập trung phát triển  CN phần mềm, tin học-sinh học, vi điện tử, công nghệ na-nô và quang tử. Nguồn lao động IT dồi dào, giá rẻ, trình độ cao, có uy tín với thế giới và thành thạo tiếng Anh đã đưa IT hội nhập nhanh chóng với thế giới, thu hút đầu tư nước ngoài. Theo đánh giá, có thể tiết kiệm từ 30% đến 40% chi phí khi thuê các kỹ sư phần mềm ở Ấn Ðộ. Những công ty hàng đầu của Mỹ và châu Âu như Boeing, Daimler Chrysler, DuPont, General Electric, General Motors, Intel, IBM, Microsoft, Siemens, Unilever... đã xây dựng hàng loạt Trung tâm nghiên cứu phát triển (RD) ở Ấn Ðộ. Góp phần đưa nước này trở thành một trong những trung tâm RD lớn nhất thế giới. Bang-ga-lo được coi là "Thung lũng Silicon của Ấn Ðộ" với sự có mặt của hơn 200 công ty đa quốc gia, đóng góp 36% tổng sản lượng CN phần mềm của Ấn Ðộ, là một lĩnh vực tăng trưởng ổn định trong hơn 15 năm qua mang đến việc làm cho hàng triệu lao động. Trong NTC 2005-2006 đạt 23 tỷ USD, tăng 34,54% so với năm trước; trong NTC 2006-2007 kết thúc cuối tháng ba vừa qua ngành công nghiệp này tăng trưởng 30,7% với tổng giá trị 39,6 tỷ USD. Ấn Ðộ đã trở thành cường quốc phần mềm, là khối nam châm khổng lồ thu hút thế giới trong lĩnh vực CN phần mềm và dịch vụ thông tin. Chính phủ và Bộ Công nghệ thông tin và Viễn thông Ấn Ðộ đóng vai trò tiên phong bảo đảm mức tăng trưởng phi thường của IT. Hơn 100 nước đang nhập khẩu phần mềm của Ấn Ðộ.

Hạt nhân vì hòa bình

Năm 1953, Chính phủ Ấn Ðộ đưa ra Chương trình năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình. Năm 1959, Ấn Ðộ có nhà máy điện nguyên tử, là quốc gia châu Á đầu tiên khai thác được nguồn năng lượng này. Ngày nay, Ấn Ðộ đạt trình độ tiên tiến trong lĩnh vực CN hạt nhân, gồm cả việc tạo ra vật liệu nguồn. CN hạt nhân phục vụ nhu cầu cuộc sống và sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước. Ấn Ðộ đã thực hiện chương trình chiến lược, sản xuất điện hạt nhân và coi nguồn năng lượng này đóng một vai trò chủ đạo trong vấn đề an ninh năng lượng. Ấn Ðộ đang vận hành 15 nhà máy điện hạt nhân với công suất 4.120 MW và bảy nhà máy điện hạt nhân khác đang được xây dựng nhằm tăng thêm công suất 3.420 MW. Hiện tại, các lò phản ứng điện hạt nhân của Ấn Ðộ công suất tối đa 540 MW. Năm 2017, Ấn Ðộ xây dựng nhà máy điện hạt nhân lớn công suất tới 2.000 MW. Năm 2020, tổng công suất các nhà máy điện hạt nhân của Ấn Ðộ khoảng 20.000 MW. Ðến năm 2050, điện hạt nhân sẽ chiếm khoảng 35% tổng công suất phát điện của Ấn Ðộ. Thực hiện Chương trình năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình, Ấn Ðộ còn tạo ra những đồng vị phóng xạ phục vụ nông nghiệp, y tế, công nghiệp và nghiên cứu khoa học. Nước này làm chủ CN hạt nhân từ việc tạo nguồn năng lượng bằng phản ứng hạt nhân đến quản lý rác thải phóng xạ. Các lò phản ứng và máy gia tốc nghiên cứu được các nhà khoa học hạt nhân Ấn Ðộ tự thiết kế và xây dựng.

Tiến vào không gian

Cơ quan Nghiên cứu không gian Ấn Ðộ (ISRO) đang triển khai kế hoạch nghiên cứu không gian đầy tham vọng. Tàu Chandrayaan-1 sẽ được phóng tới Mặt trăng vào đầu năm 2008; phóng tàu không gian thám hiểm Mặt trăng thứ hai Chandrayaan-2 vào năm 2011; thám hiểm các tiểu hành tinh và Sao Chổi vào năm 2015; Sao Hỏa vào năm 2019. ISRO sẽ đưa nhà du hành đầu tiên lên không gian vào năm 2014 với chi phí 2,2 tỷ USD và tàu có người lái tới Mặt trăng vào năm 2020. Như vậy, Ấn Ðộ là nước thứ tư trên thế giới có kế hoạch đưa người vào vũ trụ bằng tên lửa của chính mình. Ấn Ðộ liên tục phát triển các tàu vận tải mới và phóng vào không gian nhiều vệ tinh đáp ứng các nhiệm vụ trọng yếu của đất nước và thực hiện thương mại vũ trụ đưa vệ tinh của nước ngoài vào quỹ đạo. Năm 1994, Ấn Ðộ đã thành công khi tàu vận chuyển PSLV hoàn thành sứ mệnh đưa vệ tinh IRS-P2 nặng 800 kg lên quỹ đạo. Hàng loạt tàu vận tải khác có khả năng mang những vệ tinh có khối lượng lớn hơn lên không gian cũng đã được phát triển. Tàu vận tải GSLV có khả năng đưa vệ tinh nặng hai tấn vào không gian. Ðến nay, Ấn Ðộ có nhiều vệ tinh phục vụ nhiều mục đích khác nhau đang bay trên quỹ đạo. Với sự đầu tư phát triển CN vũ trụ, Ấn Ðộ là một trong ba nước phát triển vệ tinh cảm biến tầm xa riêng. Các lợi ích của CN vũ trụ của Ấn Ðộ đã được ứng dụng rộng rãi trong nghiên cứu khoa học, thông tin liên lạc, giáo dục, y tế, môi trường, quân sự, quản lý tài nguyên, dự báo thời tiết.

Sinh học phục vụ cuộc sống

Ấn Ðộ coi CN sinh học là lĩnh vực chiến lược, tập trung đầu tư phát triển với chủ chương "CN sinh học giúp xóa đói, giảm nghèo, tiến bước hội nhập". Lĩnh vực CN sinh học Ấn Ðộ có tốc độ tăng trưởng 35% trong suốt bốn năm gần đây, đang hướng tới mục tiêu đạt tổng thu nhập năm tỷ USD vào cuối năm 2010 và tạo ra một triệu việc làm. Ấn Ðộ đang chiếm vị trí  quan trọng trong thị trường CN sinh học toàn cầu. Ðể bảo đảm an ninh lương thực cho dân số ngày càng tăng và tới khoảng 1,5 tỷ người vào năm 2050, trong bối cảnh đất canh tác nông nghiệp bị thu hẹp cùng với những rủi ro do thiên tai, CN sinh học là giải pháp hiệu quả thực hiện an ninh lương thực, giúp tăng sản lượng và chất lượng lương thực với chi phí thấp nhất. Ấn Ðộ tăng đầu tư cho sinh học-nông nghiệp và tập trung nghiên cứu cây trồng biến đổi gen. Ngành CN sinh học-y tế của Ấn Ðộ phát triển nhanh. Các nhà khoa học Ấn Ðộ, đã và đang phát triển những phương pháp điều trị mới theo hướng giảm tối đa chi phí điều trị và tiền thuốc cho người bệnh. Số lượng các công ty hoạt động trong lĩnh vực sinh học - y tế tăng nhanh, cung cấp dược phẩm giá rẻ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Ấn Ðộ đứng thứ hai thế giới về sản xuất vắc-xin cho trẻ em và xuất khẩu tới hơn 100 nước. Ngành công nghiệp dược phẩm đạt sáu tỷ USD trong tổng số 550 tỷ USD của thị trường dược phẩm toàn cầu. Hiện có khoảng 280 công ty CN sinh học có trụ sở ở Ấn Ðộ. CN sinh học có thể tạo ra những lợi ích kinh tế lớn, đang thu hút nhiều tài năng trẻ Ấn Ðộ và nước ngoài.

Hai yếu tố đầu tiên để phát triển KHCN là chính sách và con người. Ấn Ðộ đã đề ra nhiều chính sách phát triển đúng đắn kết hợp chặt chẽ với đào tạo nguồn nhân lực KHCN. Ấn Ðộ có hệ thống trường đào tạo nguồn nhân lực với hơn 250 trường đại học, 51 trường tương đương đại học, 161 trường đại học truyền thống (được thành lập từ lâu), 34 trường đại học nông nghiệp (đào tạo các lĩnh vực lâm nghiệp, ngư nghiệp, chăn nuôi), 25 viện công nghệ - kỹ thuật, 18 trường đại học y khoa, mười trường đại học mở và 8.600 trường cao đẳng kỹ thuật. Hằng năm đào tạo hàng triệu người có tay nghề cao, thành thạo tiếng Anh. Nhiều ngành đào tạo ở Ấn Ðộ nổi tiếng thế giới như y khoa, du lịch, kinh tế, nông nghiệp, nghệ thuật, đặc biệt là đào tạo IT. Hiện có khoảng 25 nghìn sinh viên các nước đang theo học ở những trường đại học ở Ấn Ðộ. Ấn Ðộ đang là một nơi lý tưởng để thực tập và tích lũy tri thức và kinh nghiệm. Hằng năm, khoảng 100 nghìn thanh niên Ấn Ðộ du học. Nhiều người Ấn Ðộ trở thành những nhà khoa học nổi tiếng thế giới ở nhiều lĩnh vực. 38% số bác sĩ, 12% số nhà khoa học đang làm việc tại Mỹ là người Ấn Ðộ. 36% số người làm việc trong hãng Microsoft, 34% trong hãng IBM là người Ấn Ðộ. Trong những năm qua, với những chính sách thu hút và sử dụng nhân tài hiệu quả, Ấn Ðộ đã thu hút hơn 30 nghìn nhà khoa học và chuyên gia hàng đầu người Ấn Ðộ trở về quê hương làm việc, phụng sự Tổ quốc góp phần tạo nên một đội ngũ những người làm KHCN hùng hậu thứ hai thế giới.

Theo Nhandan, 25/08/2007

Tin bài khác
Online: 7
Số lượt truy cập: 10375264
Lên đầu trang
SSL