Sự khám phá ra chất phóng xạ của Marie Cuerie
00:12 08/10/2005: Những nghiên cứu của nhà Bác học Marie Cuerie lúc đầu là để làm luận án về sự Phát xạ Tự nhiên mà Becquerel đã khám phá năm 1896. Từ năm 1898, bà thử tìm những đặc tính của sự phát xạ này một cách chính xác, bằng cách đo cường độ tối đa (cường độ này rất yếu) của dòng ion hóa có thể phát ra trong không khí dưới tác dụng của nó.

Bà sử dụng tĩnh điện kế mà Pierre đã hiệu chính (électromètre = máy đo électron, theo nguyên lý: dòng điện phát sinh do sự di chuyển của điện tử). Dụng cụ này thích hợp hoàn toàn với những nghiên cứu của bà. Bà thử xác định bằng nhiều thí nghiệm phân tích, xem có phải chỉ một mình quặng Uranium mới có phát xạ không. Bà khám phá ra rằng, những hợp chất của Thorium phát ra cùng một loại tia.

Khoáng Uranium (Pechblende) còn hoạt động gấp bốn lần dự tính. Marie kết luận rằng, quặng Uranium hoạt động mạnh như thế là do sự hiện diện của những yếu tố gọi là Radioactif (chất phóng xạ) trong quặng, là những chất có đặc tính là tự biến thành chất khác, rồi phát ra năng lượng, nhưng có một lượng rất nhỏ, nên khó thấy được bằng phương pháp phân tích hóa học cổ điển.

Lúc bấy giờ, Pierre cộng tác với Marie. Họ đắm mình vào việc phân chia chất hóa học nặng nhọc và tỉ mỉ. Thời kỳ đó, các nghiên cứu không được tài trợ như ngày nay, nhưng cặp vợ chồng trẻ đã xin được một kho trống, tường ngăn tồi tàn với mưa, gió, tuyết và những bất thường của thời tiết. Họ làm việc với một người giúp việc tên là André Debierne. Nhờ máy đo tĩnh điện, họ lấy được số đo của phóng xạ trong những phần tạo ra do sự phân chia chất hóa học.

Tháng 7 năm 1898, họ khám phá ra chất đầu tiên mà họ đặt tên là Polonium, để nhớ đến quê hương của Marie.

Sự phân tích chất Baryum thu được từ khoáng Uranium đã cho phép họ chứng tỏ rắng, có một nguyên tố phóng xạ thứ hai hiện diện với một lượng rất nhỏ mà họ gọi là Radium và công bố khám phá của họ năm 1898, nhấn mạnh rằng tính phóng xạ của chất này là rất cao.

Bà cũng lập ra một bảng ghi tất cả những nguyên tố phóng xạ được biết vào năm 1910.

NHỮNG NGUYÊN TỐ PHÓNG XẠ ÐƯỢC BIẾT NĂM 1910

 

Thorium

Uranium

Actinium

MésoThorium 1

RadioUranium

 

MésoThorium 2

Uranium X

RadioActinium

RadioThorium

Ionium

Actinium X

Thorium X

Radium

 

 

Radium A

Actinium A

Thorium A

Radium B

Actinium B1

Thorium B

Radium C

Actinium B2

Thorium B

Radium C

 

 

Radium D

Actinium C

Thorium D

Radium E

 

 

Radium F (Polonium)

 

ẢNH HƯỞNG ĐỐI VỚI XÃ HỘI

Sự khám phá ra các chất phóng xa đã mang lại nhiều tiện ích, để nghiên cứu cấu tạo của nguyên tử và nhân nguyên tử. Marie Curie đã tìm ra những ứng dụng của chất phóng xạ trong hóa học, điều trị và nhất là trong sinh học. Cách chữa trị Curie, được Pierre hiệu chính trước ngày cưới của họ, được kết hợp với ngành giải phẫu và ngành quang tuyến X để chống bệnh ung thư.

Marie quả quyết rằng, nếu chất Radium nằm trong tay của kẻ giết người, thì rất nguy hiểm. Bà thiết lập hơn 200 phòng quang tuyến trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất; bà đã cứu giúp cho hơn một triệu người bị thương.

Ngày nay, chất phóng xạ và quang tuyến X được dùng trong Y học, Khảo cổ, Địa chất, trong trùng tu những tác phẩm nghệ thuật và bảo quản thức ăn. Trong tương lai gần, hy vọng sẽ có những áp dụng mới có ích ra đời, với điều kiện các nhà khoa học phải hoà khớp Khoa học và Lương tâm.

Nguồn: vietsciences.free.fr

Online: 15
Số lượt truy cập: 10374887
Lên đầu trang
SSL