Cơn ác mộng Chernobyl xảy ra như thế nào?
00:12 27/04/2006: Vụ tai nạn ngày 26/4/1986 tại nhà máy điện Chernobyl đã gây ra thảm hoạ hạt nhân tồi tệ nhất trong lịch sử thế giới. Sai lầm trong thiết kế và điều khiển tạo thành vụ nổ mạnh đến mức thổi bay cả phần nóc nặng nghìn tấn của lò phản ứng số 4, phát tán vô số chất phóng xạ vào môi trường sống.

Con số thiệt hại về nhân mạng trong thảm họa cho đến nay vẫn còn là điều gây tranh cãi. Đây là tai nạn nghiêm trọng hơn nhiều so với sự cố tại nhà máy hạt nhân tại Three Mile Island của Mỹ năm 1979, từng làm một số chất phóng xạ rò rỉ.

Báo cáo năm 2005 của Chernobyl Forum - tổ chức được thành lập bởi Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Liên Hợp Quốc và chính phủ các nước Belarus, Nga, Ukraina - kết luận rằng, khoảng 50 người chủ yếu là công nhân trong nhà máy đã chết do phơi nhiễm phóng xạ.

Họ ước tính 4.000 người khác có thể cũng chết sau đó do nhiễm phóng xạ. Tuy nhiên, tổ chức Hoà bình Xanh cho rằng, con số này cao hơn nhiều và lên đến 93.000 người. Trong khi đó, theo số liệu chính thức chỉ có 31 nạn nhân thiệt mạng tức thì sau tiếng nổ.

Một khối bê tông cốt thép trông như một chiếc quan tài khổng lồ vội vàng được xây lên, để lấp chiếc lò phản ứng bị nổ. Nhưng nó đang suy yếu theo thời gian và dự kiến sẽ phải thay thế vào năm 2007. Nhưng trước khi nó được xây chất phóng xạ đã kịp lan từ Ukraina sang nước láng giềng Belarus và nhiều nơi khác ở châu Âu.

Nhà máy điện hạt nhân Chernobyl vẫn tiếp tục sản xuất điện thêm 14 năm sau thảm hoạ và chỉ đóng cửa hoàn toàn vào năm 2000 do sức ép của quốc tế. Một vùng cách ly có bán kính 30 km được thiết lập quanh Chernobyl và đây là một trong những điểm nhiễm phóng xạ đậm đặc nhất trên hành tinh hiện nay.

Ngày định mệnh

Một trong 4 lò phản ứng tại nhà máy Chernobyl, cách Kiev 110 km, phát nổ lúc 01h23 giờ địa phương, ngày thứ bảy 26/4/1986. Chỉ hai ngày sau, bụi phóng xạ được phát hiện tận Thuỵ Điển, Na Uy và Phần Lan, cách đó hơn 1.600 km.

Riêng tại Thuỵ Điển, sự tăng đột biến của mức độ phóng xạ đủ lớn đến mức cho ban bố tình trạng báo động. Lúc đầu nước này tưởng rằng đã xảy ra tai nạn tại một trong những lò phản ứng của họ bên bờ biển Baltic. Lệnh di tản 600 công nhân tại đây được phát ra, trước khi các chuyên gia phát hiện nguồn chất phóng xạ đến từ Liên Xô.

Dù vậy, Liên Xô vẫn bưng bít không chịu công nhận xảy ra sự cố tại Chernobyl. Mãi tới 9h tối ngày 28/4, sau khi bị Thuỵ Điển gây sức ép dữ dội Matxcơva mới chịu ra một tuyên bố vỏn vẹn có 5 câu đề cập đến thảm hoạ trên:

"Một tai nạn đã xảy ra tại nhà máy điện hạt nhân Chernobyl. Một trong các lò phản ứng bị hư hại. Các biện pháp đang được thực hiện để giải quyết hậu quả. Những nạn nhân đang được cứu trợ. Chính phủ thành lập một uỷ ban về tai nạn này".

Từ "hư hại" không phản ánh đúng sự thật về việc một lõi lò phản ứng hạt nhân đang tan chảy, phát tán vô số chất phóng xạ vào khí quyển. Theo các chuyên gia ước tính, lượng phóng xạ từ vụ nổ Chernobyl cao gấp hàng trăm lần hai quả bom nguyên tử do Mỹ ném xuống Nhật Bản năm 1945.

Không gì đen tối hơn số phận người dân sống ở Pripyat, thành phố dành cho các nhân viên nhà máy cùng gia đình cách lò phản ứng 2 km. Cuộc sống tại đây vẫn diễn ra bình thường sau vụ nổ. Hầu hết người dân đều vô tư ra ngoài vào sáng hôm đó để "hưởng" kiểu thời tiết ấm áp khác thường. Có 16 đám cưới vẫn diễn ra vui vẻ trong ngày cuối tuần 26/4/1986.

Thành phố Pripyat chỉ nhận lệnh sơ tán sau khi vụ nổ đã xảy ra được 36 giờ. Trong khi đó, các ngôi làng lân cận phải vài ngày sau mới được di tản xong. Còn tại thủ đô Kiev cách đó hơn 100 km, người dân vẫn nô nức đón chờ cuộc diễu hành nhân ngày Quốc tế lao động mà hoàn toàn không ý thức gì về lượng phóng xạ khổng lồ đang ụp lên đầu họ.

Thổi phồng thông tin

Phải hai tuần sau vụ nổ tại nhà máy Chernobyl, chính quyền Liên Xô mới chính thức thừa nhận về một thảm hoạ hạt nhân đang tồn tại ở Ukraina. Sự bưng bít thông tin dẫn đến sự hoang mang của người dân khi người ta bắt đầu biết được một vài điều. Lúc đó xuất hiện căn bệnh tâm lý sợ nhiễm phóng xạ radiophobia ở Ukraina.

Hơn nữa, thông tin thiếu chính xác cũng gây ra sự thổi phồng và nhầm lẫn trong giới truyền thông của phương tây. Hãng thông tấn UPI trích một nguồn tin ở Kiev cho biết, có tới 2.000 người thiệt mạng ngay lập tức trong vụ nổ và con số này đã xuất hiện trên rất nhiều trang nhất các báo lớn.

Giới chức Mỹ cũng đưa ra những thông tin sai lầm dựa vào các bức ảnh chụp từ vệ tinh. Một nguồn tin Lầu Năm Góc tiết lộ với kênh truyền hình Mỹ NBC hôm 29/4/1986 rằng, con số 2.000 người chết "có vẻ đúng vì có 4.000 người làm việc tại nhà máy Chernobyl".

Những người anh hùng

Tới những ngày đầu của tháng 5/1986, các nhóm trực tiếp giải quyết hậu quả vụ nổ đưa ra cảnh báo về lượng phóng xạ bị rò rỉ bắt đầu tăng trở lại. Họ lo ngại lõi lò phản ứng bị tan chảy sẽ thiêu đốt cả hệ thống nền móng và làm nó bị sập, đồng thời khiến số nhiên liệu hạt nhân bên trong bị nổ lần nữa. 

Các chuyên gia lo sợ vụ nổ thứ hai này sẽ còn lớn hơn nhiều so với vụ đầu tiên. Từ đó lõi lò phản ứng sẽ tiếp tục chìm sâu xuống lòng đất, có thể gây ô nhiễm cả nguồn nước sạch cung cấp cho thủ đô Kiev, nơi đang có 2,5 triệu dân sinh sống.

Bất chấp cái chết nhìn thấy rõ vì lượng phóng xạ cực mạnh, những người tham gia khắc phục hậu quả tại lò phản ứng số 4 vẫn dũng cảm lao vào cuộc. Họ là những người dập tắt ngọn lửa, bơm nước vào lò phản ứng và làm sạch nó bằng nitơ lỏng.

Dũng cảm không kém là những người thả cát và chì từ trực thăng vào lò phản ứng, lặn xuống hồ nước bên dưới để mở cửa cống, hoặc đào dưới chân móng lò phản ứng để lắp đặt một hệ thống ống dẫn. Hàng nghìn con người dành cả mùa hè năm 1986 để dựng lên cỗ quan tài bằng bê tông bịt kín lò phản ứng cũng xứng đáng được vinh danh vì lòng dũng cảm.

Điều đáng nói là rất nhiều công nhân tham gia khắc phục hậu quả tại Chernobyl đều trong tình trạng bị phơi nhiễm chất phóng xạ. Những người này, gồm nhiều tình nguyện viên, không hề được trang bị thiết bị đo phóng xạ tại nơi mình làm việc để ý thức được môi trường ở đó nguy hiểm như thế nào.

Trước nguy cơ đe doạ sự sống trên quy mộ rộng lớn như vậy, chính quyền Liên Xô đã huy động gần như toàn bộ sức người, sức của và trí tuệ đến Chernobyl để ứng cứu. Hơn 600 nghìn người được tập trung đến đây để tham gia chiến dịch dọn chất độc phóng xạ.

Sai lầm chết người

Nhiều năm sau thảm hoạ người ta mới biết rằng, không hề có biện pháp nào trong nỗ lực ngăn chặn sự tan chảy của lõi lò phản ứng sau vụ nổ thực sự có hiệu quả . Hầu hết số vật liệu thả từ trực thăng xuống đều đi trệch mục tiêu. Trong khi đó, chiến dịch dùng nitơ lỏng cũng được ngừng lại ngay sau khi mở màn.

May mắn là đã không xảy ra một vụ nổ lớn thứ hai như nhiều chuyên gia lo ngại. Thay vào đó là việc hình thành nên một khối đá bọt tại lò phản ứng. Số nhiên liệu hạt nhân còn lại đã chảy vào những khoang trống bên dưới lò phản ứng và hoá cứng tại đây.

Nhưng hiện còn 160 tấn chất phóng xạ vẫn đang nằm trong lòng đất Chernobyl và không ai dám chắc quả bom hẹn giờ ấy có phát nổ hay không hoặc sẽ phát nổ vào lúc nào.

Việc đầu tiên sau khi những nguy hiểm tức thì đã qua là việc truy tìm nguyên nhân tai nạn. Nhiều chuyên gia đồng ý với nhau rằng, sai sót của con người chính là nguyên nhân dẫn tới thảm hoạ. Đó là thiết kế không chính xác trong hệ thống làm mát của lò phản ứng và dẫn đến vụ nổ phá huỷ lò.

Những sai lầm nghiêm trọng của các nhân viên điều hành nhà máy cũng là tác nhân dẫn đến tai nạn. Họ đã vi phạm các nguyên tắc an toàn sản xuất và thực hiện một số động tác không được phép trong quá trình thử nghiệm thiết bị điện tại lò phản ứng số 4.

Hậu quả của thảm hoạ Chernobyl có thể hình dung qua thực tế rằng, thế hệ gây ra tai nạn này không thể tự mình giải quyết tận gốc được. Họ chỉ đủ sức kìm chế những tác hại và chờ thế hệ mai sau có cách giải quyết dứt điểm.

Chernobyl và sự kỳ diệu của thiên nhiên

Thảm hoạ hạt nhân 2 thập kỷ trước đã biến Chernobyl thành nơi ô nhiễm phóng xạ đậm đặc nhất trên thế giới. Nhưng sự sống không hề bị huỷ diệt mà nơi đây lại trở thành nơi trú ẩn của đông đảo các loài động vật hoang, giống như một khu bảo tồn thiên nhiên vậy. 

Khu vực cấm vào có đường kính 30 km xung quanh nhà máy điện hạt nhân Chernobyl đang hồi sinh với sức sống mãnh liệt. Nguyên nhân vì khi con người sơ tán sau vụ nổ, nhiều loài động vật đã đổ bộ vào và biến nơi bị ô nhiễm này thành thiên đường của chúng.

Những loài thú từng tồn tại và sinh trưởng như mèo rừng hay chim cú giống lớn bị biến mất suốt hàng thập kỷ, nay đang quay trở về khu vực Chernobyl. Thậm chí nơi đây còn xuất hiện dấu chân đầy bí hiểm của một con gấu, giống ác thú vốn không còn lảng vảng ở khu vực này của Ukraina mấy thế kỷ qua.

Nhà sinh thái học Sergey Gaschak cho rằng: "Các loài động vật dường như không có cảm giác gì về phóng xạ và chúng sẽ chiếm lĩnh khu vực này, bất chấp điều kiện phóng xạ tại đây. Rất nhiều chim chóc đang làm tổ ngay trên chiếc quách bê tông".

Loài tái xuất hiện: Mèo rừng, cú, diệc bạch, thiên nga và có thể cả một con gấu.

Loài được đưa vào: Bò rừng châu Âu, ngựa Przewalski.

Loài có vú tăng về số lượng: Lửng (badger), hải ly, lợn rừng, hươu, nai sừng tấm, cáo, thỏ rừng, rái cá, chó hoang, sói.

Loài chim tăng về số lượng: Chích bông, sẻ ngô (có chóp sẫm màu trên đầu), gà gô đen, cò đen, sếu, đại bàng đuôi trắng.

Ông ám chỉ một khối bê tông và thép khổng lồ được dựng lên để bao bọc lò phản ứng bị nổ năm 1986.

"Tôi nhìn thấy tổ của sáo đá, bồ câu, nhạn và loài chim đỏ đuôi và tìm ra cả những quả trứng của chúng", nhà khoa học cho biết thêm.

Có thể tồn tại plutonium trong khu vực đó, nhưng ở đây hoàn toàn không có chất diệt cỏ, thuốc trừ sâu, hoạt động công nghiệp hay giao thông. Do đó chẳng có gì quấy rầy loài lợn rừng, vốn tăng gấp 8 lần về số lượng ở Chernobyl từ năm 1986 đến 1988, ngoại trừ một loài dã thú khác cũng đang hồi sinh là chó sói.

Sự nhiễm độc

Tuy nhiên, bức tranh cuộc sống thiên nhiên trong khu vực không tươi sáng như vậy trong những tháng đầu tiên sau thảm hoạ hạt nhân, vì lúc đó mức phóng xạ cao hơn gấp nhiều lần. Khoảng 4 km vuông rừng thông nằm sát lò phản ứng đã bị chuyển màu rồi chết, khiến chúng có tên gọi mới là khu Rừng Đỏ.

Một số loài động vật trong những khu vực chịu ảnh hưởng nặng nhất của thảm hoạ cũng chết hoặc ngừng sinh sôi. Những phôi thai của loài chuột bị tan rã, trong khi số ngựa bị bỏ lại trên một hòn đảo cách nhà máy điện khoảng 6 km cũng chết do tuyến giáp của chúng bị phân huỷ.

Gia súc trên hòn đảo nói trên cũng còi cọc dần do tuyến giáp bị công phá. Nhưng thế hệ tiếp theo của chúng lại khiến người ta kinh ngạc, vì bộ phận trên cơ thể chúng hoàn toàn bình thường.

Tuy vậy, đặc trưng hiện nay của các loài động vật sống trong vùng bị ô nhiễm vì thảm hoạ Chernobyl là chúng nhiễm phóng xạ ở mức không an toàn cho con người ăn thịt dù chúng vẫn khoẻ mạnh.

Khả năng thích nghi

Có một sự khác biệt đã hình thành giữa những loài động vật chỉ sinh sống trong một vùng hẹp như các con chuột chẳng hạn với các loài động vật lớn hơn như nai sừng tấm, vốn có thói quen di chuyển liên tục trong một phạm vi rộng nên không ở cố định trong vùng bị ô nhiễm.

Những loài động vật hay lang thang trong khu vực rộng có lượng nhiễm phóng xạ thấp hơn so với các loài động vật mắc kẹt trong điểm nóng về ô nhiễm. Tuy vậy, có những dấu hiệu cho thấy, những loài kém may mắn này có thể tự thích nghi được với hoàn cảnh sống của chúng.

Nhà sinh thái học Sergey Gaschak đã làm nhiều thí nghiệm trên những con chuột bắt được ở khu Rừng Đỏ. Kết quả cho thấy, chúng đang từ từ sinh trưởng trở lại, cho dù cây cối trong vùng vẫn còi cọc và có hình dạng không bình thường.

"Chúng tôi đã đánh dấu những con chuột ở vùng ô nhiễm rồi thả và bắt lại chúng một thời gian dài sau. Chúng tôi phát hiện rằng, chúng sống lâu tương đương những con ở các khu vực tương đối sạch khác", Sergey cho biết.

Bước tiếp theo của nghiên cứu là đưa những con chuột ở những nơi ít bị ô nhiễm vào khu Rừng Đỏ. "Chúng cảm thấy không được khoẻ lắm. Do vậy sự khác biệt giữa những con chuột sống quen ở đây với những con mới đến là rất rõ ràng", Sergey kết luận. 

Sự đột biến

Trong tất cả các nghiên cứu của mình, Sergey chỉ tìm thấy một con chuột có triệu trứng giống như bệnh ung thư. Ông phát hiện rất nhiều bằng chứng về sự đột biến ADN, nhưng chúng không ảnh hưởng gì đến chức năng sinh lý cũng như khả năng sinh sản của các loài động vật.

Mary Mycio, tác giả cuốn sách Wormwood Forest nghiên cứu về vạn vật học trong khu vực Chernobyl chỉ ra rằng, một con vật bị đột biến gien trong đời sống hoang dã thông thường sẽ chết hoặc bị ăn thịt, trước khi các nhà khoa học có thể quan sát được nó.

Hơn nữa như bà nhấn mạnh rằng, các nhà khoa học nhìn chung chỉ nghiên cứu toàn bộ số lượng của một loài chứ không quan tâm đến những gì xảy ra đối với một cá thể nào đó.

Mary Mycio còn đánh giá, những lợi ích mà thiên nhiên hoang dã được hưởng trong việc con người bị sơ tán khỏi khu vực nói trên có nhiều tác động hơn so với bất cứ tác hại nào của tia phóng xạ mà chúng gánh chịu.

Trong cuốn sách của mình, bà dẫn lời nhà môi trường học người Anh James Lovelock nói về ý tưởng bảo quản chất thải hạt nhân từ hoạt động sản xuất điện trong những cánh rừng nhiệt đới, hay trong các môi trường sống khác mà theo ông "đang cần chống lại sự huỷ hoại của các nhà hoạch định phát triển tham lam".

Một vùng rộng lớn bị cách ly sau thảm hoạ Chernobyl nằm trong lãnh thổ Belarus đã chính thức được chuyển thành khu bảo tồn thiên nhiên. Nhà sinh thái Sergey Gaschak mong muốn Ukraina cũng theo mô hình này, biến 2.500 km vuông bị cách ly của họ thành một khu bảo tồn hoặc công viên quốc gia.

Khác với Đảng Xanh Ukraina, khoa học gia Sergey không hề lo lắng hay phản đối nếu chính phủ thực hiện kế hoạch cho xây dựng một kho chứa sâu trong khu vực, để làm nơi cất giữ chất thải hạt nhân từ khắp cả nước.

                                                                                        Minh Hạnh, theo VietNamNet.

 

 

Tin bài khác
Online: 42
Số lượt truy cập: 10921658
Lên đầu trang
SSL